Nguyễn Đức Hiệp
Abstract
This paper reviews the state of air quality in Ho Chi Minh City as conducted
by several organisations in recent years. A comparison of the air quality
in HCM City with some other cities in the region is also made. It is shown
that the air quality of both indoor and outdoor (ambient) has been deteriorated
in recent years. This is mainly due to the increase in the usage of vehicles
and an increasing number of industries in and around the city.
Compared with other cities, such as Beijing, Tokyo, Bangkok and Manila,
the level of SO2 pollution is below those of these cities while the levels
of CO and NO2 are approaching the levels of these cities. In the case
of particle pollution, the peak particle level at some heavy traffic sites
in HCM City is very high and exceeds those of Bangkok and Manila. The
lead pollution is less than that of Bangkok. However, the lead level will
be rapidly increasing unless concrete action is implemented.
Experiences of other cities in the area of environment management can
be applied to prevent serious degradation of air quality in the city.
Suggestion for some measures that can be incorporated quickly into an
integrated air quality and transport management plan is presented.
Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2014
Water resources and environment in and around Ho Chi Minh City, Vietnam
Nguyễn Đức Hiệp
Abstract
In this paper, the status of water environment and water resources in and around Ho Chi Minh City (Vietnam) is described. The increase in population, and rapid economic growth in recent years, after Doi Moi (Renovation) Policy, have put a large and increasing stress on the water resources and environment in the city. The demand from industries, businesses and households surpass the current supply distribution capacities. The water quality in river courses and underground sources is also highly degraded due to many sources of pollution.
The authorities have initiated some joint venture works with some foreign water companies to invest in the commercial development of water supply infrastructure. Various environment organisations in the city have responded to the problems of water pollution. Of interest are the emerging roles of Non-Government Organisations (NGO) and of public participation in environment issues, especially in a traditionally government-controlled society. Some suggestions for improvement of water management are also proposed in the paper
Abstract
In this paper, the status of water environment and water resources in and around Ho Chi Minh City (Vietnam) is described. The increase in population, and rapid economic growth in recent years, after Doi Moi (Renovation) Policy, have put a large and increasing stress on the water resources and environment in the city. The demand from industries, businesses and households surpass the current supply distribution capacities. The water quality in river courses and underground sources is also highly degraded due to many sources of pollution.
The authorities have initiated some joint venture works with some foreign water companies to invest in the commercial development of water supply infrastructure. Various environment organisations in the city have responded to the problems of water pollution. Of interest are the emerging roles of Non-Government Organisations (NGO) and of public participation in environment issues, especially in a traditionally government-controlled society. Some suggestions for improvement of water management are also proposed in the paper
Hiểm họa cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi sinh của đất nước
Nguyễn Đức Hiệp
Với một lãnh thổ trải dài lên nhiều cao độ và vĩ tuyến, tạo hóa đã ban cho dân tộc Việt Nam một hệ sinh thái đa dạng và nhiều kho tàng tích sinh học hiếm quý. Chiến tranh đã hủy hoại đất nước và đày đọa nhiều thế hệ; ngày nay, để phát triển kinh tế trong hòa bình, lâm sản, khoáng sản và thủy sản đã bị khai thác kiệt quệ và nạn ô nhiễm đã lan tràn ra không khí, sông hồ, kinh rạch và đất đai. Môi sinh bị đặt dưới áp lực nặng nề của dân số gia tăng và chính sách khai thác tài nguyên ráo riết để xuất cảng trong tình trạng quản lý thiếu kỹ thuật và thẩm quyền.
Khai thác đã lấn lên rừng già để làm than lấy gỗ, xuống vùng ngập mặn phá tràm lấy chỗ nuôi tôm, lên cao xẻ núi lấy đá, đào sâu tìm giếng, khai mỏ, hút dầu, và hàng ngày hàng triệu mét khối nước thải và chất thải đang chảy thẳng vào sông hồ kinh rạch không hề xử lý. Thậm chí các chất thải và rác rước còn để ứ đọng ngay trong các thành phố chật chội đông đúc, để những trận lụt lội mang các nguồn bệnh tật rải rộng khắp nơi.
Với một lãnh thổ trải dài lên nhiều cao độ và vĩ tuyến, tạo hóa đã ban cho dân tộc Việt Nam một hệ sinh thái đa dạng và nhiều kho tàng tích sinh học hiếm quý. Chiến tranh đã hủy hoại đất nước và đày đọa nhiều thế hệ; ngày nay, để phát triển kinh tế trong hòa bình, lâm sản, khoáng sản và thủy sản đã bị khai thác kiệt quệ và nạn ô nhiễm đã lan tràn ra không khí, sông hồ, kinh rạch và đất đai. Môi sinh bị đặt dưới áp lực nặng nề của dân số gia tăng và chính sách khai thác tài nguyên ráo riết để xuất cảng trong tình trạng quản lý thiếu kỹ thuật và thẩm quyền.
Khai thác đã lấn lên rừng già để làm than lấy gỗ, xuống vùng ngập mặn phá tràm lấy chỗ nuôi tôm, lên cao xẻ núi lấy đá, đào sâu tìm giếng, khai mỏ, hút dầu, và hàng ngày hàng triệu mét khối nước thải và chất thải đang chảy thẳng vào sông hồ kinh rạch không hề xử lý. Thậm chí các chất thải và rác rước còn để ứ đọng ngay trong các thành phố chật chội đông đúc, để những trận lụt lội mang các nguồn bệnh tật rải rộng khắp nơi.
Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử
Nguyễn Đức Hiệp
Saigon có một vị trí đặc biệt, là ranh giới và là cửa ngỏ của miền Tây nam bộ và miền Đông nam bộ. Miền Tây Nam bộ nhiều người đã viết về con người, sự phong phú, phát triển của miền sông nước này. Đông Nam Bộ xưa là vùng giao thoa của văn minh Khmer, Champa nay là của Khmer, Chăm và Việt. Bài này tôi muốn viết về địa lý và phát họa vài nét về con người và lịch sử vùng đất Đông Nam bộ, đặc biệt là cột xương sống giao thông Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận hiện nay và xưa kia của hai nền văn minh Khmer và Champa và trước đó của văn hoá Sa Huỳnh và Óc Eo. Về địa lý thì Saigon là trung tâm của lưu vực từ sông Đồng Nai tới sông Vàm Cỏ, vì thế là một phần và là trọng điểm của miền Đông Nam Bộ. Đông Nam bộ có lịch sử lâu đời là vùng giao tiếp của 2 nền văn minh lớn Champa và Khmer thuở xưa và cũng là vùng có nhiều dân tộc ít người có liên hệ mật thiết về ngôn ngữ, văn hóa với thế giới Chăm và Mon-Khmer mà tiếng Việt là một nhánh. Đây cũng là vùng cư ngụ của dân tộc Stieng, Mạ, Mnong, Chu Ru (Châu Ro). Vì là vùng giao tiếp, các dân tộc ở đây nói tiếng thuộc hai hệ ngôn ngữ chính Mon-Khmer (Khmer, Stieng, Mnong), và Nam đảo Austronesian (Chăm, Chu Ru, Mạ, Jarai, Rade, Ede). Trước khi người Việt, Khmer và Chăm đến thì cả vùng Saigon, Đông Nam Bộ là cư dân Stieng, Chu Ru và Mạ cư ngụ chủ yếu dọc sông Đồng Nai, Saigon từ thượng nguồn tới gần cửa biển Cần Giờ.
Saigon có một vị trí đặc biệt, là ranh giới và là cửa ngỏ của miền Tây nam bộ và miền Đông nam bộ. Miền Tây Nam bộ nhiều người đã viết về con người, sự phong phú, phát triển của miền sông nước này. Đông Nam Bộ xưa là vùng giao thoa của văn minh Khmer, Champa nay là của Khmer, Chăm và Việt. Bài này tôi muốn viết về địa lý và phát họa vài nét về con người và lịch sử vùng đất Đông Nam bộ, đặc biệt là cột xương sống giao thông Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận hiện nay và xưa kia của hai nền văn minh Khmer và Champa và trước đó của văn hoá Sa Huỳnh và Óc Eo. Về địa lý thì Saigon là trung tâm của lưu vực từ sông Đồng Nai tới sông Vàm Cỏ, vì thế là một phần và là trọng điểm của miền Đông Nam Bộ. Đông Nam bộ có lịch sử lâu đời là vùng giao tiếp của 2 nền văn minh lớn Champa và Khmer thuở xưa và cũng là vùng có nhiều dân tộc ít người có liên hệ mật thiết về ngôn ngữ, văn hóa với thế giới Chăm và Mon-Khmer mà tiếng Việt là một nhánh. Đây cũng là vùng cư ngụ của dân tộc Stieng, Mạ, Mnong, Chu Ru (Châu Ro). Vì là vùng giao tiếp, các dân tộc ở đây nói tiếng thuộc hai hệ ngôn ngữ chính Mon-Khmer (Khmer, Stieng, Mnong), và Nam đảo Austronesian (Chăm, Chu Ru, Mạ, Jarai, Rade, Ede). Trước khi người Việt, Khmer và Chăm đến thì cả vùng Saigon, Đông Nam Bộ là cư dân Stieng, Chu Ru và Mạ cư ngụ chủ yếu dọc sông Đồng Nai, Saigon từ thượng nguồn tới gần cửa biển Cần Giờ.
Doanh nghiệp và Môi trường
Nguyễn Đức Hiệp
Bài học ở nhiều nước cho thấy, giá phải trả khi không áp dụng và thi hành luật môi trường về lâu dài sẽ là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận trước mắt. Tác nhân thường lại không gánh chịu hậu quả mà là xã hội, người dân và thế hệ sau gánh chịu.
Ngày nay doanh nghiệp không thể không coi vấn đề môi trường là ngoại vi, không quan trọng hay cần thiết trong mọi hoat động của mình nữa. Nó có ảnh hưởng vào mục tiêu chủ yếu (bottom line) của mọi doanh nghiệp: đó là mực lãi doanh thu tài chánh trong hạch toán các sản phẩm của doanh nghiệp. Có trách nhiệm về môi trường không những làm hình ảnh và sản phẩm của công ty được người tiêu dùng đánh giá cao và thưong hiệu có giá trị mà còn có thể giảm đi giá thành tiết kiệm được nhiên liệu, giá hoạt động.
Bài học ở nhiều nước cho thấy, giá phải trả khi không áp dụng và thi hành luật môi trường về lâu dài sẽ là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận trước mắt. Tác nhân thường lại không gánh chịu hậu quả mà là xã hội, người dân và thế hệ sau gánh chịu.
Ngày nay doanh nghiệp không thể không coi vấn đề môi trường là ngoại vi, không quan trọng hay cần thiết trong mọi hoat động của mình nữa. Nó có ảnh hưởng vào mục tiêu chủ yếu (bottom line) của mọi doanh nghiệp: đó là mực lãi doanh thu tài chánh trong hạch toán các sản phẩm của doanh nghiệp. Có trách nhiệm về môi trường không những làm hình ảnh và sản phẩm của công ty được người tiêu dùng đánh giá cao và thưong hiệu có giá trị mà còn có thể giảm đi giá thành tiết kiệm được nhiên liệu, giá hoạt động.
Nguời cổ Đông Nam Á
Nguyễn Đức Hiệp
Đông Nam Á là nơi cư trú lâu đời của con người từ khi con người hiện đại đi từ Đông Phi qua Ấn Độ đến Đông Nam Á hơn 60000 năm nay. Từ Đông Nam Á, con người đã đi đến Úc châu, và sau đó đã đi lên Đông Á. Người cổ nhất được tìm thấy ở Úc, ở hồ Mungo (nay là sa mạc), được định tuổi là khoãng 50000 năm. Hiện nay chưa tìm được di tích người cổ hơn người Mungo ở Đông Nam Á, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy Đông Nam Á là điểm xuất phát của con người đi xuống lục địa Úc trong thời băng hà Pleistocene. Để có thể hiểu rõ quá trình phát triển của con người, chúng ta hảy đi ngược lại thời gian tìm hiểu về địa chất, môi trường sống trong vùng Đông Nam Á từ cuối thời băng hà Pleistocene cho đến ngày nay.
Đông Nam Á là nơi cư trú lâu đời của con người từ khi con người hiện đại đi từ Đông Phi qua Ấn Độ đến Đông Nam Á hơn 60000 năm nay. Từ Đông Nam Á, con người đã đi đến Úc châu, và sau đó đã đi lên Đông Á. Người cổ nhất được tìm thấy ở Úc, ở hồ Mungo (nay là sa mạc), được định tuổi là khoãng 50000 năm. Hiện nay chưa tìm được di tích người cổ hơn người Mungo ở Đông Nam Á, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy Đông Nam Á là điểm xuất phát của con người đi xuống lục địa Úc trong thời băng hà Pleistocene. Để có thể hiểu rõ quá trình phát triển của con người, chúng ta hảy đi ngược lại thời gian tìm hiểu về địa chất, môi trường sống trong vùng Đông Nam Á từ cuối thời băng hà Pleistocene cho đến ngày nay.
Duợc thảo huyền diệu: Thanh thảo và bệnh sốt rét
Nguyễn Đức Hiệp
Thiên nhiên với sự đa dạng sinh học là một biểu tượng của sức sống vạn năng trên trái đất mà con người là một trong muôn ngàn sinh vật. Con người đã biết tận dụng những tài nguyên thiên nhiên trong cuộc sống và phải tranh đấu sống còn với các sinh vật khác trong môi trường cạnh tranh tiến hóa. Từ ngàn xưa, bệnh tật là một hiểm nguy đáng sợ đe doa và cắt ngắn cuộc sống của con người. Ngoài sức đề kháng tự nhiên, con người cũng tìm nhiều cách để trị bệnh kể cả dùng những mê tín nghi lễ thần chú sơ khai để đuổi bệnh. Trong lịch sử các nền văn minh, y sĩ, thầy thuốc là những người được quý trọng trong xã hội. Hầu như mỗi dân tộc đều có y học truyền thống để lại qua nhiều thế hệ từ sách vỡ hay truyền khẩu. Mặc dầu hiện nay y học truyền thống thường không phổ biến và có nhiều hiệu quả so với y học hiện đại nhưng y học truyền thống đã có vài thành quả lớn ảnh hưởng ngay cả đến y học hiện đại. Châm cứu là một thí dụ điễn hình cũng như thần dược thanh thảo trị bệnh sốt rét mà y học hiện đại cũng bó tay vì ký sinh trùng gây bệnh sốt rét đã nhờn các loại thuốc chống sốt rét dùng trước đây.
Thiên nhiên với sự đa dạng sinh học là một biểu tượng của sức sống vạn năng trên trái đất mà con người là một trong muôn ngàn sinh vật. Con người đã biết tận dụng những tài nguyên thiên nhiên trong cuộc sống và phải tranh đấu sống còn với các sinh vật khác trong môi trường cạnh tranh tiến hóa. Từ ngàn xưa, bệnh tật là một hiểm nguy đáng sợ đe doa và cắt ngắn cuộc sống của con người. Ngoài sức đề kháng tự nhiên, con người cũng tìm nhiều cách để trị bệnh kể cả dùng những mê tín nghi lễ thần chú sơ khai để đuổi bệnh. Trong lịch sử các nền văn minh, y sĩ, thầy thuốc là những người được quý trọng trong xã hội. Hầu như mỗi dân tộc đều có y học truyền thống để lại qua nhiều thế hệ từ sách vỡ hay truyền khẩu. Mặc dầu hiện nay y học truyền thống thường không phổ biến và có nhiều hiệu quả so với y học hiện đại nhưng y học truyền thống đã có vài thành quả lớn ảnh hưởng ngay cả đến y học hiện đại. Châm cứu là một thí dụ điễn hình cũng như thần dược thanh thảo trị bệnh sốt rét mà y học hiện đại cũng bó tay vì ký sinh trùng gây bệnh sốt rét đã nhờn các loại thuốc chống sốt rét dùng trước đây.
Môi trường động và thực vật đồng bằng sông Cửu Long
Nguyễn Đức Hiệp
Môi trường sinh học ở Việt Nam là môi trường đa dạng với nhiều động và thực vật quý, từ vùng núi phía Bắc, Trung và Tây Nguyên cho đến các vùng dọc biển và đồng bằng đến các rừng ngập nước tiếp nối giữa đất và nước. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi có hệ sinh thái phong phú và đa dạng, chủ yếu là hệ sinh thái nước (sông và biển) và rừng ngập nước ở vùng trũng và ven biển.
Đồng bằng sông Cửu Long được tạo ra bởi phù sa sông Cửu Long ít nhất là từ 6000 năm trước đây. Con người định cư ở đồng bằng sông Cửu Long từ lâu đời, bắt đầu được biết đến từ thời Phù Nam cách đây khoảng hai ngàn năm qua di chỉ Óc Eo ở Long Xuyên và Kiên Giang. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, thì hiện nay (2007) mật độ dân cư ở đồng bằng là 435 người/km2, cao thứ hai sau đồng bằng sông Hồng (5). Khoảng 17 triêu (20% dân số cả nước) sống ở đồng bằng sông Cửu Long và tăng trưởng 2.5% mỗi năm.
Môi trường sinh học ở Việt Nam là môi trường đa dạng với nhiều động và thực vật quý, từ vùng núi phía Bắc, Trung và Tây Nguyên cho đến các vùng dọc biển và đồng bằng đến các rừng ngập nước tiếp nối giữa đất và nước. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi có hệ sinh thái phong phú và đa dạng, chủ yếu là hệ sinh thái nước (sông và biển) và rừng ngập nước ở vùng trũng và ven biển.
Đồng bằng sông Cửu Long được tạo ra bởi phù sa sông Cửu Long ít nhất là từ 6000 năm trước đây. Con người định cư ở đồng bằng sông Cửu Long từ lâu đời, bắt đầu được biết đến từ thời Phù Nam cách đây khoảng hai ngàn năm qua di chỉ Óc Eo ở Long Xuyên và Kiên Giang. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, thì hiện nay (2007) mật độ dân cư ở đồng bằng là 435 người/km2, cao thứ hai sau đồng bằng sông Hồng (5). Khoảng 17 triêu (20% dân số cả nước) sống ở đồng bằng sông Cửu Long và tăng trưởng 2.5% mỗi năm.
Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014
Bệnh truyền nhiễm trong lịch sử con người
Nguyễn Đức Hiệp
Đầu thế kỷ 20, đã xảy ra hai nạn dịch lớn, đậu mùa năm 1913 và dịch cúm Tây Ban Nha năm 1919. Cúm Tây Ban Nha vào Úc sau khi các binh lính trở về từ Âu châu sau đệ nhất thế chiến đã lây nhiểm vào dân số. Ở thời điểm cao của bệnh cúm, có đến 36% dân số bị nhiểm, trong đó gây ra 1.4% bị tử vong. Ở Sydney, chính phủ tiểu bang New South Wales đã ra lệnh đóng cửa các rạp hát công cộng, dân phải mang khẩu trang trên các phương tiện chuyên chở công cộng và các công sở. Trường học, quán bia đóng cửa, ngay cả các lể trong nhà thờ, tổ chức đua ngựa cũng không được tổ chức. Sau dịch cúm Tây Ban Nha là 2 dịch cúm lớn lan rộng trên thế giới là cúm năm 1957 và 1968, nhưng hệ quả không khốc liệt như dịch cúm 1918. Đây chính là bài học đáng sợ về dịch tể mà ngày nay các nhà chuyên môn và cơ quan y tế ở nhiều nước trên thế giới lo ngại là dịch cúm gia cầm lan qua người và trở thành cúm truyền nhiễm giết người nhanh chóng.
Đầu thế kỷ 20, đã xảy ra hai nạn dịch lớn, đậu mùa năm 1913 và dịch cúm Tây Ban Nha năm 1919. Cúm Tây Ban Nha vào Úc sau khi các binh lính trở về từ Âu châu sau đệ nhất thế chiến đã lây nhiểm vào dân số. Ở thời điểm cao của bệnh cúm, có đến 36% dân số bị nhiểm, trong đó gây ra 1.4% bị tử vong. Ở Sydney, chính phủ tiểu bang New South Wales đã ra lệnh đóng cửa các rạp hát công cộng, dân phải mang khẩu trang trên các phương tiện chuyên chở công cộng và các công sở. Trường học, quán bia đóng cửa, ngay cả các lể trong nhà thờ, tổ chức đua ngựa cũng không được tổ chức. Sau dịch cúm Tây Ban Nha là 2 dịch cúm lớn lan rộng trên thế giới là cúm năm 1957 và 1968, nhưng hệ quả không khốc liệt như dịch cúm 1918. Đây chính là bài học đáng sợ về dịch tể mà ngày nay các nhà chuyên môn và cơ quan y tế ở nhiều nước trên thế giới lo ngại là dịch cúm gia cầm lan qua người và trở thành cúm truyền nhiễm giết người nhanh chóng.
Triển vọng cho thế giới: Cơ chế giảm phá rừng và thoái hóa rừng
Nguyễn Đức Hiệp
Ý niệm giảm khí thải nhà nóng từ sự giảm phá rừng và làm rừng thoái hóa, gọi là REDD (Reducing Emission from Deforestation and Forest Degradation) là một ý niệm mới, được tạo ra để đánh giá là rừng có những dịch vụ môi trường và có giá trị cao phục vụ cho con người và vì thế phải được bảo vệ, và trả thù lao cho những người giữ rừng, xứng đáng với giá trị kinh tế mà rừng đã phục vụ và mang lại những lợi ích môi sinh cho con người (như nguồn nước, khí sạch, tăng oxygen, giảm khí nhà nóng, tăng cảnh quan, đa dạng sinh học, y học, văn hóa và các dịch vụ môi sinh khác ...). Mọi người trong xã hội đều phải trả cho những tiện ích như điện, nước, quản lý chất thải ... thì cũng phải trả cho những tiện ích, dịch vụ mà rừng đã và đang mang lại cho xã hội và người dân, trong phạm vi địa phương và trên phạm vi toàn cầu, vì rừng có những lợi ích cho toàn nhân loại không phân biệt biên giới.
Ý niệm giảm khí thải nhà nóng từ sự giảm phá rừng và làm rừng thoái hóa, gọi là REDD (Reducing Emission from Deforestation and Forest Degradation) là một ý niệm mới, được tạo ra để đánh giá là rừng có những dịch vụ môi trường và có giá trị cao phục vụ cho con người và vì thế phải được bảo vệ, và trả thù lao cho những người giữ rừng, xứng đáng với giá trị kinh tế mà rừng đã phục vụ và mang lại những lợi ích môi sinh cho con người (như nguồn nước, khí sạch, tăng oxygen, giảm khí nhà nóng, tăng cảnh quan, đa dạng sinh học, y học, văn hóa và các dịch vụ môi sinh khác ...). Mọi người trong xã hội đều phải trả cho những tiện ích như điện, nước, quản lý chất thải ... thì cũng phải trả cho những tiện ích, dịch vụ mà rừng đã và đang mang lại cho xã hội và người dân, trong phạm vi địa phương và trên phạm vi toàn cầu, vì rừng có những lợi ích cho toàn nhân loại không phân biệt biên giới.
Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011
Dự án xây đập thủy điện Don Sahong (Nam Lào) và ảnh hưởng môi trường
Nguyễn Đức Hiệp
Dự án xây đập Sayaburi trên dòng chính của sông MeKong (Cửu Long) ở bắc Lào đã được chính phủ Lào tạm ngưng vào tháng 4 năm 2011, sau khi gặp sự phản ứng không thuận lợi từ chính phủ Việt Nam, Cam Bốt và Thái Lan trong quá trình tham vấn khi xây đập có ảnh hưởng đến các nước của Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission). Đây là đập đầu tiên dự định xây trên dòng chính của sông Cửu Long và là một đập trong nhiều đập dự định sẽ được xây đã bị nhiều tổ chức phi chính phủ ở các nước trong vùng phản đối vì khả năng tác hại môi trường và kinh tế của chúng đối với cư dân sống ở lưu vực sông.
Ngoài các đập ở thượng nguồn vùng Vân Nam, Trung Quốc, thì các đập khác đang có ở Lào, Thái Lan và Việt Nam là ở phụ lưu của sông Mekong. Dự án xây một loạt các đập trên dòng chính của sông Mekong ở Lào có ảnh hưởng quan trọng hơn các đập trên phụ lưu và vì thế đập Sayaburi đã đượợc quan tâm đặc biệt của quần chúng và tất cả các bên có can dự hay liên hệ .
Nhưng một đập khác có tác hại lớn hơn về môi trường và kinh tế là dự án đập Don Sahong trên dòng chính của sông Mekong ở tỉnh Champasak, Nam Lào gần biên giới với Cam Bốt.
Dự án xây đập Sayaburi trên dòng chính của sông MeKong (Cửu Long) ở bắc Lào đã được chính phủ Lào tạm ngưng vào tháng 4 năm 2011, sau khi gặp sự phản ứng không thuận lợi từ chính phủ Việt Nam, Cam Bốt và Thái Lan trong quá trình tham vấn khi xây đập có ảnh hưởng đến các nước của Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission). Đây là đập đầu tiên dự định xây trên dòng chính của sông Cửu Long và là một đập trong nhiều đập dự định sẽ được xây đã bị nhiều tổ chức phi chính phủ ở các nước trong vùng phản đối vì khả năng tác hại môi trường và kinh tế của chúng đối với cư dân sống ở lưu vực sông.
Ngoài các đập ở thượng nguồn vùng Vân Nam, Trung Quốc, thì các đập khác đang có ở Lào, Thái Lan và Việt Nam là ở phụ lưu của sông Mekong. Dự án xây một loạt các đập trên dòng chính của sông Mekong ở Lào có ảnh hưởng quan trọng hơn các đập trên phụ lưu và vì thế đập Sayaburi đã đượợc quan tâm đặc biệt của quần chúng và tất cả các bên có can dự hay liên hệ .
Nhưng một đập khác có tác hại lớn hơn về môi trường và kinh tế là dự án đập Don Sahong trên dòng chính của sông Mekong ở tỉnh Champasak, Nam Lào gần biên giới với Cam Bốt.
Thứ Hai, 18 tháng 7, 2005
Lâm Ấp, Champa và di sản
Nguyễn Đức Hiệp
Trong chuyến về lại Việt Nam vào đầu năm 2004, tôi có dịp viếng thăm miền trung Việt Nam chủ yếu là ở ba thành phố chính: Huế, Đà Nẵng và Hội An. Huế thơ mộng đượm nét Việt Nam, Hội An cổ kính với nhiều ảnh hưởng của văn hoá Hoa kiều (Minh Hương), và Đà Nẵng thì lại mới mẻ và năng động. Có lẽ đa số khách du lịch sẽ chọn Huế hay Hội An là địa điểm đáng thăm nhất qua bề dầy lịch sử và nét cổ kính của hai thành phố này. Nhưng chính Đà nẵng là nơi tôi chú ý hơn vì ở đấy có Viện bảo tàng văn hoá Chăm chứa đựng nhiều bảo vật quý giá của nền văn minh cổ Champa.
Trong lứa tuổi tuổi học trò ở trung học, tôi rất thích môn học lịch sử và tò mò về vương quốc Chăm. Sự tò mò pha lẫn lãng mạng và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẽ một phần bị ảnh hưởng từ tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên. Gần đây, tôi có dịp đọc tập thơ “Tháp Nắng” và các bài nghiên cứu có giá trị về văn hoá Chăm của Inrasara (Phú Trạm), một người Việt gốc Chăm. Cuộc hành trình trỡ về nguồn gốc Chăm của Inrasara được kể lại rất chân tình và cảm động, làm tôi ray rức và càng muốn học hỏi thêm về một bộ phận dân tộc và văn hoá ít được quan tâm đến ở Việt Nam. Tôi đến thăm Viện bảo tàng Đà Nẵng với mục đích tìm hiểu về quá trình phát triển mỹ thuật Chăm qua các phong cách khác nhau của các tháp Chăm.
Trong chuyến về lại Việt Nam vào đầu năm 2004, tôi có dịp viếng thăm miền trung Việt Nam chủ yếu là ở ba thành phố chính: Huế, Đà Nẵng và Hội An. Huế thơ mộng đượm nét Việt Nam, Hội An cổ kính với nhiều ảnh hưởng của văn hoá Hoa kiều (Minh Hương), và Đà Nẵng thì lại mới mẻ và năng động. Có lẽ đa số khách du lịch sẽ chọn Huế hay Hội An là địa điểm đáng thăm nhất qua bề dầy lịch sử và nét cổ kính của hai thành phố này. Nhưng chính Đà nẵng là nơi tôi chú ý hơn vì ở đấy có Viện bảo tàng văn hoá Chăm chứa đựng nhiều bảo vật quý giá của nền văn minh cổ Champa.
Trong lứa tuổi tuổi học trò ở trung học, tôi rất thích môn học lịch sử và tò mò về vương quốc Chăm. Sự tò mò pha lẫn lãng mạng và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẽ một phần bị ảnh hưởng từ tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên. Gần đây, tôi có dịp đọc tập thơ “Tháp Nắng” và các bài nghiên cứu có giá trị về văn hoá Chăm của Inrasara (Phú Trạm), một người Việt gốc Chăm. Cuộc hành trình trỡ về nguồn gốc Chăm của Inrasara được kể lại rất chân tình và cảm động, làm tôi ray rức và càng muốn học hỏi thêm về một bộ phận dân tộc và văn hoá ít được quan tâm đến ở Việt Nam. Tôi đến thăm Viện bảo tàng Đà Nẵng với mục đích tìm hiểu về quá trình phát triển mỹ thuật Chăm qua các phong cách khác nhau của các tháp Chăm.
Khí hậu và hiện tượng El Nino
Nguyễn Đức Hiệp
Đầu tháng 8 năm 2004, cơ quan khí tượng Úc dự đoán là hiện tượng El Nino sẽ trở lại khoảng cuối năm nay và nhiều nơi ở Úc, Indonesia sẽ bị khô hơn bình thường, nguy cơ hạn hán có thể xảy ra. Ảnh hưởng của hiện tượng El Nino không chỉ giới hạn ở trong vùng Indonesia, Úc châu mà còn khắp nhiều nơi trên thế giới. Vì tầm quan trọng của hiện tượng này trên khí hậu trái đất, nhiều nước trên thế giới đã và đang đầu tư tài chánh và nhân lực rất nhiều để nghiên cứu, tìm hiểu nguyên do, hậu quả của El Nino và tiên đoán sự hình thành của hiện tượng này.
Hiện tượng El Nino, còn được gọi là Dao động phương Nam (Southern Oscillation) trong khí tượng học, xuất hiện từ khi có sự thành hình của các lục địa châu Á, châu Mỹ và biển Thái Bình Dương. Vì thế nó đã có từ lâu rồi. Tuy vậy hiện tượng El Nino chỉ được biết rõ và nghiên cứu bắt đầu từ cuối thập niên 1960. Người thổ dân Inca ở Nam Mỹ trong các thế kỷ trước đã áp dụng kiến thức về hiện tượng này và thích ứng vào sinh hoạt canh nông. Khi chòm sao Pleiades trong đêm vào tháng sáu trông rất rõ (kể cả các sao không sáng) thì vài tháng sau từ lúc ấy sẽ có nhiều mưa. Ngược lại khi chúng bị mờ, hạn hán thường xảy ra sau đó. Ngày nay ta biết rằng trong lúc có hiện tượng El Nino, mây rất cao loại cirrus thường có trên dãy núi Andes, do các mưa bảo từ xa ở phía đông Thái bình dương mang đến. Chính những mây này làm mờ đi chòm sao Pleiades.
Đầu tháng 8 năm 2004, cơ quan khí tượng Úc dự đoán là hiện tượng El Nino sẽ trở lại khoảng cuối năm nay và nhiều nơi ở Úc, Indonesia sẽ bị khô hơn bình thường, nguy cơ hạn hán có thể xảy ra. Ảnh hưởng của hiện tượng El Nino không chỉ giới hạn ở trong vùng Indonesia, Úc châu mà còn khắp nhiều nơi trên thế giới. Vì tầm quan trọng của hiện tượng này trên khí hậu trái đất, nhiều nước trên thế giới đã và đang đầu tư tài chánh và nhân lực rất nhiều để nghiên cứu, tìm hiểu nguyên do, hậu quả của El Nino và tiên đoán sự hình thành của hiện tượng này.
Hiện tượng El Nino, còn được gọi là Dao động phương Nam (Southern Oscillation) trong khí tượng học, xuất hiện từ khi có sự thành hình của các lục địa châu Á, châu Mỹ và biển Thái Bình Dương. Vì thế nó đã có từ lâu rồi. Tuy vậy hiện tượng El Nino chỉ được biết rõ và nghiên cứu bắt đầu từ cuối thập niên 1960. Người thổ dân Inca ở Nam Mỹ trong các thế kỷ trước đã áp dụng kiến thức về hiện tượng này và thích ứng vào sinh hoạt canh nông. Khi chòm sao Pleiades trong đêm vào tháng sáu trông rất rõ (kể cả các sao không sáng) thì vài tháng sau từ lúc ấy sẽ có nhiều mưa. Ngược lại khi chúng bị mờ, hạn hán thường xảy ra sau đó. Ngày nay ta biết rằng trong lúc có hiện tượng El Nino, mây rất cao loại cirrus thường có trên dãy núi Andes, do các mưa bảo từ xa ở phía đông Thái bình dương mang đến. Chính những mây này làm mờ đi chòm sao Pleiades.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)